Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018

Nhà lãnh đạo Đỗ Mười và vấn đề bảo vệ biển đảo nước ta

Thanh Niên giới thiệu bài viết của nguyên Phó trưởng ban Ban Biên giới Chính phủ Hoàng Trọng Lập nhân 49 ngày nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười từ trần về những dấu ấn của nguyên Tổng bí thư trong bảo vệ chủ quyền biển đảo.

   

  Lễ ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc bộ ngày 25.12.2000 TL

 
Ngày 6.10.2018 đã diễn ra Quốc tang nguyên Tổng bí thư, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Cũng thời nay, 43 năm về trước là ngày Ra đời Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ, tiền thân của Ban Biên giới Chính phủ và Ủy ban Biên giới quốc gia sau này. Đây chỉ là sự tình cờ nhưng khiến tôi nhớ lại sự quan tâm và những ý kiến chỉ đạo của đồng chí Đỗ Mười trong công cuộc bảo vệ lãnh thổ biển đảo Tổ quốc.

Khi Ban Biên giới Chính phủ được thành lập, trụ sở làm việc đặt tại tầng 3 tòa nhà Văn phòng Chính phủ và chúng tôi nhiều lúc được gặp đồng chí Đỗ Mười khi ông là Phó chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Những quyết định chiến lược

Tôi nhớ lần đầu tiên tham dự cuộc họp với đồng chí Đỗ Mười vào năm 1985 về việc tổ hợp công ty 7 nước dự định đặt 550 hải lý đường dây cáp quang ngầm Sin-Hon-Tai qua vùng Đặc quyền kinh tế của Nước Nhà. Theo Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS), các quốc gia được quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia khác.

Chính vì vậy, một số nước tham gia dự án đặt cáp không muốn thông báo cho phía VN. Trong bối cảnh UNCLOS mới được ký kết, chưa có hiệu lực vì chưa đủ 60 quốc gia phê chuẩn, chúng tôi phải nghiên cứu thận trọng và báo cáo đầy đủ với đồng chí Đỗ Mười, khi đó là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Tuy các quốc gia được quyền tự do lắp đặt cáp ngầm nhưng đặt cáp là liên quan đến điều tra nghiên cứu khoa học biển và đào đặt các trạm tiếp sóng là những công việc mà UNCLOS cho phép các quốc gia ven biển có quyền tài phán.

Dự án đặt cáp là hoàn toàn mới đối với Việt Nam nhưng Đồng chí Đỗ Mười đã nắm được ngay các lý lẽ và gật đầu buộc Tổ hợp các công ty nước ngoài xin phép, nộp lệ phí xin giấy phép và dịch vụ nghiên cứu khoa học biển. Họ cũng phải mời cán bộ ta lên tàu đo lường và thống kê khi đặt cáp.

Đây là một thắng lợi lộ diện tiền lệ để chúng ta bảo vệ các vùng biển thuộc quyền tài phán của mình.

Trong giai đoạn đồng chí Đỗ Mười làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1988-1991) và Tổng bí thư (1991-1997), đất Việt Nam có khá nhiều sự kiện về biên giới lãnh thổ, biển đảo. Trên cương vị của mình, đồng chí Đỗ Mười đã có tương đối nhiều việc làm, ra quyết định có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh nhân viên bảo vệ, gìn giữ lãnh thổ biển đảo của Tố quốc.

Năm 1988, Trung Quốc xâm chiếm một số đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và các chiến sĩ của chúng ta đang nắm giữ Gạc Ma đã anh dũng hy sinh. Chúng ta đã đấu tranh quyết liệt với hành động trắng trợn của Trung Quốc, từng bước tăng tốc sự có mặt để nhân viên an ninh các đảo ở Trường Sa và thềm lục địa phía nam.

Đồng chí Đỗ Mười đã tích cực ủng hộ xây dựng các nhà dàn DK trên thềm lục địa nơi Tư Chính, bác bỏ những ý kiến còn băn khoăn. Ngày 5.7.1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ban hành Chỉ thị số 180 UT về xây dựng cụm dịch vụ kinh tế-khoa học kỹ thuật thuộc Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo che phủ lên các bãi đá ngầm trên thềm lục địa khoanh vùng Tư Chính.

Đây chính là việc làm có ý nghĩa chiến lược, nhằm có mặt một cách thật sự bảo vệ thềm lục địa quan trọng của Viêt Nam. Việc này càng có giá trị khi China ngày 8.5.1992 ngang ngược kí với công ty Crestone (Mỹ) thăm dò khai thác một lô rộng 25.255 km2 tại khu vực thềm lục địa Tư Chính của nước ta.

Một nhà giàn ở vùng Tư Chính KIÊN TRUNG

 Cam kết ràng buộc chủ quyền đối với Hoàng Sa-Trường Sa

Giữa Việt Nam và Trung Hoa tồn tại 3 vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ là biên giới đất liền, phân định vịnh Bắc Bộ và vấn đề Biển Đông. Đây là những vấn đề rất phức hợp và hệ trọng, gây ra nguy cơ mất ổn định ảnh hưởng tới độc lập, phát triển của đất nước.

Chính vì vậy, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ với China, một trong những ưu tiên của đất Nước Nhà là giải quyết những trở ngại đó. Ngày 7.11.1991, trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã đặt vấn đề và thỏa thuận với Chủ tịch Trung Hoa Giang Trạch Dân: “hai bên chấp nhận thông qua thương lượng giải quyết độc lập vụ việc biên giới lãnh thổ tồn tại giữa hai nước”, theo sách Biên giới trên đất liền VN-Trung Quốc (NXB Công an Nhân dân).

Sau khi phía 2 bên ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết những vấn biên giới lãnh thổ Việt Nam-China tháng 10.1993, các diễn đàn đàm phán về 3 sự việc nói trên được lộ diện.

Dù tính cách khác nhau, nhưng cụ Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt rất hợp nhau
Mặt khác, trước nhu cầu nhân viên bảo vệ biển đảo của Tổ quốc và phối kết hợp các bộ ngành, địa phương trở nên tân tiến kinh tế biển, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước quyết định thành lập Ban chỉ đạo Biển Đông-Trường Sa (năm 1992) do Phó thủ tướng Trần Đức Lương làm Trưởng Ban.

Thành viên Ban chỉ đạo gồm có lãnh đạo các bộ ngành quốc phòng, ngoại giao, công an, dầu khí, 1 số ban của Đảng được mời tham gia khi có liên quan...Ban Biên giới Chính phủ làm thường trực Ban chỉ đạo và tôi được giao nhiệm vụ Phụ trách văn phòng Ban chỉ đạo.

Ngày 6.5.1993, Bộ Chính trị do đồng chí Đỗ Mười đứng đầu ban hành Nghị quyết số 03 NQ/TW về 1 số nhiệm vụ phát triển kinh tế trong những năm trước mắt. Theo tinh thần của Nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ ra ra quyết định số 398 ngày 5.8.1993 thành lập và hoạt động Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và các hải đảo, trên cơ sở Ban chỉ đạo Biển Đông -Trường Sa được mở rộng và trao thêm nhiệm vụ chỉ đạo điều hành cải cách và phát triển kinh tế biển.

Ban chỉ đạo Nhà nước có thêm thành viên là lãnh đạo Bộ Thủy sản, Kế hoạch, Tài chính, Giao thông Vận tải... Ban chỉ đạo trong thời điểm đó thực sự hoạt động có tác dụng trong việc phối hợp các bộ ngành, địa phương trở nên tân tiến cơ sở hạ tầng kinh tế biển đảo, tăng tốc nhân viên an ninh chủ quyền và nghĩa vụ và quyền lợi quốc gia.

Có thể nói các đảo, đá trong quần đảo Trường Sa và hệ thống các đảo ven bờ như Vân Đồn, Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cồn Cỏ, Phú Quí, Phú Quốc, Thổ Chu... cách tân và phát triển được như ngày nay có 1 phần đóng góp rất cao của Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và các hải đảo.
 

Lá cờ đỏ sao vàng luôn tung bay trên nóc nhà giàn KIÊN TRUNG

 Một sự kiện có ý nghĩa đối với biển đảo VN là ngày 23.6.1994, Quốc hội phê chuẩn UNCLOS. Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Quốc hội hàm chứa chế độ về biển và giải quyết vấn đề 2 quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa. Tôi còn nhớ các vị lãnh đạo, trong đó có đồng chí Đỗ Mười đã chỉnh sửa văn bản Nghị quyết không dưới 30 lần.

Trong Nghị quyết có nhấn lại quan điếm của Tổng bí thư Đỗ Mười đã nêu ra với các nước là “Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết về chủ quyền lãnh thổ tương tự như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên niềm tin bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng điều khoản thế giới, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền ,quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa .

Trong khi nỗ lực cố gắng thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu bền hơn các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức hợp thêm tình hình,không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”.

Biên giới lãnh thổ là việc hệ trọng của quốc gia nên thường các vấn đề được báo cáo lên lãnh đạo cấp cao và cán bộ về biên giới hay được triệu tập khi cần. Chiều 19.10.1994, tôi có mặt trong phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về hoạt động của nước ngoài trên Biển Đông và đối sách của ta .

Tôi ấn tượng về cách điều hành cuộc họp của Tổng bí thư Đỗ Mười khi không khí thường là sôi nổi lành mạnh và tích cực. Đồng chí nêu những vấn đề cần bàn để các thành viên có thể bày tỏ ý kiến và chốt lại những điểm quan trọng để thực hiện.

Vấn đề vịnh Bắc bộ

Tổng bí thư Đỗ Mười luôn quan tâm thúc đẩy giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ với China và đã thỏa thuận với Tổng bí thư  Giang Trạch Dân về “tiến tới ký Hiệp định về biên giới trên bộ trước năm 2000...; thực hiện phân định vịnh Bắc Bộ một cách công bằng phù hợp, chậm lắm là năm 2000”.

Trong phiên họp của Bộ Chính trị ngày 6.8.1998 về chủ trương cơ bản trên Biển Đông và biên giới trên bộ với Trung Quốc, đồng chí Đỗ Mười, khi đó là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, đã cam kết lại: “Tôi đã thỏa thuận với Tổng bí thư Giang Trạch Dân: làm sao giải quyết phân định vịnh Bắc bộ những năm 2000”. Phiên họp đó tôi được tham dự và các đồng chí Văn phòng Trung ương Đảng đề nghị tôi làm bản ghi chép để lưu trữ vì bàn đến vụ việc chuyên môn biên giới lãnh thổ.

Để thực hiện quyết tâm của lãnh đạo cấp cao, từ năm 1992-2000, riêng về phân định vịnh Bắc bộ, Việt Nam và Trung Hoa đã triển khai 7 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 3 cuộc gặp Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ, 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên và rất nhiều vòng họp của Tổ chuyên viên liên hợp, Tổ chuyên gia đo vẽ và xây dựng Tổng đồ vịnh Bắc bộ.

Ngày 25.12.2000 tại Bắc Kinh, 2 nước đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc bộ giữa CHXHCN VN và CHND Trung Quốc. Sự ra đời của hiệp định có ý nghĩa sâu sắc hết sức quan trọng, tạo môi trường hòa bình ổn định để cải tiến và phát triển đất nước.

Hiệp định là cơ sở pháp lý quốc tế để chúng ta nhân viên an ninh, quản lý và điều hành khai thác tài nguyên vịnh Bắc bộ phục vụ sự phát triển kinh tế đất nước.

Trong thế kỉ 21 này, nhân loại đang hướng ra biển để sinh tồn và cải cách và phát triển. Việt Nam cũng đã có Chiến lược Biển của mình. Đất nước đã đạt được thành tựu về biển đảo như hiện nay, một trong những phần nhờ sự quan tâm và những quyết sách của đồng chí Đỗ Mười - nhà lãnh đạo có tấm lòng đối với biển đảo thân yêu của Tổ quốc.

(Sưu tầm)

>>> Nguồn: Nhà lãnh đạo Đỗ Mười và sự việc bảo vệ biển đảo Việt Nam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét